Hiện nay, phong trào nuôi cá lóc cườm đang phát triển rất mạnh ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, nhất là vào mùa lũ. Người ta thường nuôi cá trong ao, trong bể lót bạt nilon hoặc nuôi trong bè. Cá lóc ngoài tự nhiên thường rất khỏe mạnh, ít bệnh tật, nhưng trong điều kiện nuôi nhân tạo với cường độ cao, cá lóc bông cũng tiềm ẩn nhiều loại bệnh gây hại. Nhiều gia đình nuôi cá lóc khi chưa có nhiều kinh nghiệm đã thất bại do dịch bệnh.
Vào mùa lũ, ao hồ, bể nuôi thường tích tụ nhiều phù sa, ô nhiễm, mùn bã, phân rác và các chất thải khác gây ô nhiễm nguồn nước và tiềm ẩn mầm bệnh cho cá nuôi. Cá lóc nuôi trong mùa lũ thường xuất hiện các bệnh do ký sinh trùng gây ra như giun đũa, giun đơn chủ, xuất huyết do nhiễm virus, đốm đỏ do vi khuẩn, bệnh do giáp xác. Tuy nhiên, bệnh thường gặp nhất đối với cá rắn nuôi là bệnh ghẻ hay còn gọi là hội chứng lở loét. Bệnh lở mép xảy ra trên cá viper nuôi không chỉ ở nước ta mà còn ở nhiều nước Đông Nam Á và Thái Bình Dương.
Nguyên nhân và dấu hiệu của bệnh lở loét ở cá lóc
Những tác nhân gây bệnh cho cá gồm virus, vi khuẩn, nấm, ký sinh trùng và các yếu tố môi trường. Nguyên nhân gây bệnh trước nhất là virus, nấm cũng được coi là yếu tố quan trong gây ra hội chứng lở loét. Có thể chúng cùng với các loại ký sinh trùng làm cá bị thương tổn tạo điều kiện cho các tác nhân chính gây bệnh cho cá.
Ngoài các yếu tố môi trường như nhiệt độ thay đổi, môi trường nước quá dơ bẩn; sự ô nhiễm có thể gây sốc và làm cá nhiễm bệnh, nhiều quan điểm cho rằng nấm ký sinh trong nội tạng Aphanomyces được coi là tác nhân chính gây ra bệnh này. Bệnh thường xuất hiện vào cuối mùa mưa (tháng 10-12) và đầu mùa khô (tháng 1-2).
Dấu hiệu đầu tiên của bệnh là cá ăn ít hoặc bỏ ăn, bơi nhô đầu khỏi mặt nước; nổi lờ đờ, da xám, có vết loét hoặc các đốm đỏ phát triển ở đầu, thân, vây và đuôi. Sau một thời gian bị bệnh cá kiệt sức và chết.
Quan sát bên ngoài cá thấy xuất hiện nhiều vết nhỏ màu xám hay đỏ. Mang, quanh mắt và da xuất huyết, toàn thân có màu xám tối. Thương tổn lan rộng thành những vết loét lớn trên vẩy, thân cá… Khi cá bệnh nặng sẽ thấy máu chảy ở hậu môn. Giải phẫu cá sẽ thấy bóng hơi xuất huyết và teo dần; gan thận cũng xuất huyết. Khoang bụng có dấu hiệu tích nước; có nhiều dịch nhờn và xuất huyết.
Quá trình nhiễm bệnh
Bệnh xảy ra ở nhiều địa phương và mô hình nuôi có khác nhau. Tuy nhiên nhìn chung tại các ao bị nhiễm bệnh đều có đặc điểm là ao nuôi mật độ dày, môi trường ô nhiễm. Quy trình phòng bệnh không hiệu quả hoặc không xử lý bệnh khi có dấu hiệu sớm, đến khi bệnh lây lan ra toàn quần đàn. Bị đa bội nhiễm thì bắt đầu chữa trị kém hiệu quả.
Môi trường là nguyên nhân chính gây ra bệnh trên cá. Bệnh tiến triển nhanh vào thời điểm nắng nóng và giảm vào mùa mát. Vào mùa nắng nóng, cá lóc ăn nhiều, thải phân nhanh. Trong khi đó thức ăn viên hoặc thức ăn tươi cho cá chứa hàm lượng cao; do đó nhanh chóng làm ô nhiễm đáy ao nuôi. Mùa nắng cũng đồng hành với mùa nước cạn, việc bơm nước, thay nước theo nước bị hạn chế; các ao ở kênh nhỏ nước không đủ nước lấy nên chỉ thay được khi các con nước lớn,…Cá lóc là loài có cơ quan hô hấp phụ tuy nhiên có sức hoạt động mạnh.
Biện pháp phòng bệnh cho cá lóc
Phòng bệnh có tính chất quyết định đến kết quả nuôi, trong đó tẩy dọn ao; bể nuôi theo đúng quy trình kỹ thuật để diệt các tác nhân gây bệnh là rất quan trọng. Quản lý tốt môi trường nuôi, cung cấp nước nuôi cá bằng nước sạch. Ổn định môi trường, kìm hãm sự phát triển của mầm bệnh; bằng cách xử lý định kỳ 15 ngày/lần bằng dung dịch Vimekon (1g/1m3 nước). Tránh làm cá bị xây xát, không để cá bị nhiễm các loại bệnh ngoài da sẽ tạo điều kiện cho bệnh cá phát triển.
Cho cá ăn đủ thức ăn với hàm lượng dinh dưỡng cao làm cá khỏe sẽ có sức đề kháng tốt. Thường xuyên trộn thức ăn với men tiêu hóa, vitamin C, premix.
Khoa Thủy sản (ĐH Cần Thơ) khuyến cáo cách phòng trị bệnh ghẻ cá. Xử lý ao nuôi bằng vôi, giữ cho môi trường ổn định, dùng hóa chất formol; và thuốc tím làm giảm bớt mật độ vi khuẩn và diệt nấm ký sinh trùng. Dùng kháng sinh diệt vi khuẩn làm lành vết thương trên da cho cá.
Phương pháp điều trị bệnh
Khi cá có dấu hiệu bị bệnh cần thay 50% nước bằng nước sạch, vệ sinh xung quanh ao nuôi. Xử lý nước bằng Fresh Water với lượng 1 kg (650 gói A + 350 gói B) cho 1.000-1.500m3 nước. Trộn thuốc kháng sinh vào thức ăn cho cá liên tục trong 7 ngày theo liều 250g Desert + 50ml Vime-Fenfish 2000 cho 1 tấn cá.
Cám ơn bạn đã đọc bài viết của chúng tôi.