Nuôi lồng bè mang lại nhiều giá trị kinh tế cho người nông dân và đóng góp lớn cho ngành nuôi trồng thủy sản. Hiện nay, từ các công ty thủy sản đến các hộ dân đầu tư nuôi cá lồng bè và gặt hái được nhiều thành công. Xu hướng mở rộng quy mô, số lượng lồng bè, đa dạng các loài cá. Đặc biệt là khi nói đến cá ngừ nuôi. Cá ngừ là một trong những mặt hàng thủy sản xuất khẩu chủ lực của nước ta. Đứng thứ 3 về giá trị xuất khẩu sau tôm sú và cá tra / basa.
Để phòng trị bệnh cho cá ngừ nuôi lồng cần áp dụng một số biện pháp: sát trùng vùng nuôi cá, nâng cao sức khỏe, tăng cường sức đề kháng, bổ sung vitamin C, E, đặt lồng cá ngừ ở vùng nước có độ trong và xa các vùng nuôi cá lồng khác.
Bệnh ký sinh trùng cho cá
Cá ngừ nuôi lồng bị nhiễm ký sinh trùng thường có các dấu hiệu bệnh lý sau: Cá xuất hiện các vết thương ở trên thân cá và có biểu hiện ngứa ngáy, bơi nhanh xung quanh lồng rồi bơi lên mặt lồng, thỉnh thoảng bắt gặp cá bị mù mắt (được gọi là hiện tượng “nổ mắt”).
Đã phát hiện 3 loài ký sinh trùng nhiễm trên cá ngừ nuôi lồng có dấu hiệu bệnh được thu mẫu. Gồm: trùng quả dưa nước mặn Cryptocaryon irritans ký sinh ở mang cá với tỷ lệ nhiễm là 36%; trùng lông Paranophrys sp. ký sinh ở mang và da cá với tỷ lệ nhiễm 28%, và rận cá Caligus sp. ký sinh ở da cá với tỷ lệ nhiễm 24%. Cả 3 loài ký sinh trùng này đều nhiễm trên cá ngừ nuôi với cường độ thấp. Điều đáng nói là chỉ phát hiện thấy cá ngừ nuôi bị nhiễm ký sinh trùng. Khi chúng có kích cỡ dưới 15 kg; vào những lúc môi trường nước biển bị đục, độ trong của nước thấp (chỉ từ 1,5 đến 2 mét).
>> Cập nhật thêm thông tin tại rscheman.com nhé!
Cá bị nhiễm khuẩn
Cá ngừ nuôi lồng mắc bệnh vi khuẩn do bị nhiễm Vibro sp. gây bệnh xuất huyết; thường xuất hiện các dấu hiệu bệnh lý như vây bị ăn mòn, thối rữa, mắt bị lồi và xuất huyết. Khi mổ cá thấy cá có dấu hiệu đặc trưng của bệnh do vi khuẩn gây ra là dưới cơ thịt cá bị xuất huyết. Công tác quản lý sức khỏe và phòng trị bệnh cho các đối tượng thủy sản nuôi là rất cần thiết. Nhằm tránh rủi ro vì dịch bệnh gây ra; góp phần nâng cao năng suất; hiệu quả nuôi và tạo ra sản phẩm đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.
Với cá ngừ nuôi lồng cũng vậy. Trong quá trình nuôi cá, phải theo dõi chặt chẽ chế độ cho ăn hàng ngày. Quan sát mọi hoạt động của cá để có những biện pháp xử lý đúng và kịp thời. Hạn chế thấp nhất thiệt hại xảy ra. Tuy nhiên. Do cá ngừ có đặc điểm bơi liên tục và với tốc độ cao nên nếu xảy ra hiện tượng cá bị bệnh; người nuôi sẽ vô cùng khó khăn (nếu không nói là không thể thực hiện được) khi bắt cá ra khỏi lồng để chữa trị. Do đó, một việc vô cùng quan trọng là phải tích cực phòng bệnh; nâng cao sức đề kháng với bệnh của cá ngừ nuôi.
Phòng ngừa bệnh cho cá nuôi
Để phòng trị bệnh cho cá ngừ nuôi, cần áp dụng một số biện pháp sau:
- Khử trùng khu vực nuôi cá: Treo thuốc khử trùng dạng viên sủi có hoạt chất chính là trichloisocyanuric axit ở xung quanh lồng. Với liều lượng 4 viên (100 gam) cho một lồng hình trụ tròn (đường kính 16 mét; chu vi miệng lồng 50 mét; chiều cao lưới 10 mét) để khử trùng vùng nuôi. Việc treo thuốc được thực hiện liên tục trong suốt thời gian nuôi cá.
- Nâng cao sức đề kháng và phòng bệnh cho cá nuôi bằng cách bổ sung các vitamin C và E vào thức ăn của cá 2 lần mỗi tuần với liều lượng bằng 0,5% khối lượng thức ăn cho cá.
- Cần đặt lồng nuôi cá ngừ ở vùng nước có độ trong lớn (thường trên 5 mét); xa các khu vực nuôi cá lồng bè khác. Cũng cần sử dụng lồng nuôi có kích thước lớn hơn; chu vi miệng lồng hơn 100 mét. Để cá ngừ có khoảng không gian bơi lội rộng hơn. Phù hợp với đặc điểm vận động của cá; giảm nguy cơ cá lao đầu vào lưới xung quanh lồng và bị chết.
Phòng bệnh cho cá vào mùa nắng nóng
Quản lý độ trong cho phù hợp với từng điều kiện nuôi. Độ trong của nước nuôi thủy sản chủ yếu phụ thuộc vào mật độ của sinh vật phù du có trong ao. Khi độ trong quá thấp tức là các chất hữu cơ tồn tại quá nhiều trong ao nuôi và điều này là không cần thiết. Đôi khi còn tiềm ẩn nhiều rủi ro bệnh dịch cho thủy sản. Thông thường do tảo phù du phát triển quá dày, làm các chỉ số pH. DO (oxy hòa tan) biến động rất lớn gây sốc cho thủy sản nuôi trong ao.
Ngược lại khi độ trong cao, hàm lượng oxy thường thấp và tảo đáy có nguy cơ bùng phát mạnh. Cạnh tranh không gian hoạt động và oxy về ban đêm, gây sốc cho tôm cá. Thông thường vào ban đêm tảo và một số động vật thủy sinh thực hiện phản ứng hô hấp dẫn đến lượng oxi bị thiếu hụt. Điều này ảnh hưởng đến khả năng hô hấp của thủy sản trong ao nuôi. Vì vậy vào đầu giờ sáng chúng ta thường thấy cá ăn nổi do thiếu O2 cục bộ.
Ngoài ra sự phát sinh, phát triển quá mức của Tảo sẽ sinh độc tố. Ảnh hưởng đến khả năng phát triển của thủy sản. Trong trường hợp độ trong quá cao(trên 40-50cm). Bà con cần dùng phân hữu cơ, vô cơ, vi sinh để gây màu nước trước khi thả nuôi. Định kỳ dùng vôi nông nghiệp (CaCO3) hay vôi Dolomite (CaMg(CO3)2). Để ổn định pH và độ cứng trong ao nuôi thủy sản nước mặn. Nhằm đảm bảo sự phát triển ổn định của sinh vật phù du trong suốt vụ nuôi. Dùng chế phẩm vi sinh để ổn định môi trường.